


TÂM TÌNH


TÂM TÌNH CỰU SVSQ & HẬU DUỆ


K10 NGUYỄN NGỌC SƠN
(Hồi ức về ngày cuối cùng 30/4/1975 tại Học Viện CSQG-Thủ Đức)
Vài tiếng nổ vang vọng từ xa kèm theo những cột khói đen toả lên mù mịt trên bầu trời xanh thẳm, đã không làm giao động ĐĐ 34 đang chăm chú nghe thiếu tá Ngô Bá Phước thuyết trình với đề tài xin pháo binh yểm trợ khi cuộc cảnh sát bị Việt cộng tấn công biển người, phương pháp chấm tọa độ trên bản đồ. Thế là những bài toán thời trung học được đem ra áp dụng trong thực tế không ngờ lại hữu ích như vậy. Chuông báo hiệu giờ tan học, chúng tôi tập họp và di hành về nhà ăn dùng cơm trưa.
Sau khẩu lệnh, toàn thể ĐĐ34 bước đều bước và tôi bắt nhịp quân hành "Trên đầu súng quê hương tổ quốc đã vươn mình.... hai...ba” (số là tuần này, tôi được đề cử làm tuần sự đại đội, cũng oai ra phết nha!). Trăm tiếng hát vang lên khuấy động cả vũ đình trường giữa trưa hè oi bức tháng 4, như nói lên sự quyết tâm của chúng tôi vẩn tin tường Việt Nam Cộng Hoà dân chủ, tự do, no ấm không thể nào xụp đổ được!
Hồi tưởng lại những ngày qua, hơn bảy ngàn thí sinh dự tuyển trên bốn quân khu, kết quả chỉ được gần bốn trăm thí sinh trúng tuyển vào khóa 10 sĩ quan cảnh sát! 25 tháng mười năm 1974, chúng tôi nhận giấy báo trình diện HVCSQG Thủ Đức. Trong tuần lễ đầu tiên này, anh nào cũng còn mang dáng dấp thư sinh, lè phè ở các giảng đường đại học (Khóa 10 là khóa tân tuyển có nhiều khoa bảng đầu tiên của Bộ Tư Lệnh, tối thiểu là tú tài hai, và rất nhiều sv cao học, cử nhân, còn vài chứng chỉ thì nhiều như lá rụng mùa thu). Đó là sự thật và đa số đã tập trung vào hai đại đội 33 và 34. Chiều đến các mái tóc dài dợn sóng hoặc uốn cong đều được ông thượng sĩ già o bế thành húi cua hết. Tiếp đến đi lãnh cảnh trang, cảnh dụng: hai bộ đồ trận hoa màu đất, mũ bê rê đen, giày trận cao su, thắt lưng, ba lô.... khi mặc vào anh nào cũng cười khúc khích vì rộng thùng thình. Ai đã khám sức khoẻ ở bệnh viện cảnh sát An Đông thì được miễn khám lại, còn những người khác thì phải bị tái khám lần hai, kết quả có vài chục mạng phải xách vali về lại nguyên quán, trông thật đau lòng, số anh em này sau được thay thế bằng các thí sinh dự khuyết. Hai ngày sau, chúng tôi được công xa vận chuyển đến Trung tâm Huấn luyện Căn bản Rạch Dừa. Ở đây, chúng tôi được chia ra thành hai đại đội khoá sinh, và bắt đầu thụ huấn căn bản quân sự như một sĩ quan quân đội, cách đi đứng, phương pháp chào tay, chào kính, đi diễn hành, hành quân, sử dụng vũ khí các loại...những tuần lễ đầu, đi đứng ăn uống lúc nào củng phải chạy lụp xụp, ba lô đầy đủ quân dụng. Súng ôm ngang ngực, nón sắt với quai ngang cằm. Tờ mờ sáng, đại đội 2 chúng tôi trong đồng phục quần sọt đen, áo thung trắng chạy thể dục khoảng năm cây số, vừa chạy vừa hô to khẩu hiệu “cảnh sát khoẻ”. Tiểu đội trực không phải chạy nhưng ở nhà làm công tác vệ sinh, chà láng doanh trại.
Ở Rạch Dừa, ngoài các căn bản chiến trường, chúng tôi còn được học những chiến thuật di hành ban đêm, cách định vị các vì sao để tìm phương hướng. (Nhờ vậy, tôi đã áp dụng bài học này trong chuyến vượt biên đầy thảm khốc vào năm 1980). Ngày thi mãn khóa vũ khí, bắt thăm trúng ngay cây trung liên BAR, trong vòng 10 phút tháo ráp tôi đã hoàn tất đạt điểm 10.
Gần cuối chương trình, chúng tôi được gởi sang TTHL Vạn Kiếp để thực tập bò hoả lực dưới họng súng đại liên M60. Đây là một bãi sình lầy, với dàn kẽm gai giăng sát người, các khóa sinh thay phiên bắt đầu bò từ cuối sân đến đầu sân, đạn mã tử đại liên nổ dòn từng chập trên đầu, kèm theo những tiếng nổ long trời, đất sình văng tứ tung làm nhiều anh hồn vía lên mây. Bò sấp, bò ngửa, bò tự do, bò giữa chừng đợi anh em cổ võ…ráng lên….., cuối cùng ai cũng về tới đích an toàn. Ẩm thực trong ngày này vẫn là cơm gạo đỏ, cá lẹp...do nhà bàn TTHL Rạch Dừa chở đến. Sau khi rửa sơ cho sạch bùn đất, chúng tôi được lệnh cả hai đại đội hàng một, ba lô súng đạn di hành về trại. Từ TTHL Vạn Kiếp về TTHL Rạch Dừa khá xa, những bộ cảnh phục hoa màu đất phút chốc đã khô rang dưới sức nóng gay gắt mặt trời. Tới miểu Ba Cô, được lệnh nghỉ giải lao. Ai nấy mừng húm, tưởng xe Học Viện đến rước về, nào ngờ hai ông đại đội trưởng tập họp rồi phán khẩu lệnh “nín thở qua sông”. Tấm poncho được lôi ra để bọc lại ba lô, tay ôm súng, lần dây cáp lội qua sông. Những anh không biết lội thì năn nỉ bạn bè: tao theo sau mày, có gì mày dzớt tao nghe…Qua sông, đồ khô lại ướt, poncho xếp lại, ba lô súng đạn lên vai…di hành tiếp về trại. Nhìn tấm bảng TTHL Căn Bản Rạch Dừa thấp thoáng, những bộ mặt nhăn nhó cười lên rạng rỡ...Tới rồi anh em ơi, chút nữa thôi..Vế tới doanh trại đại đội, lại tập họp, Th/úy Sáu sau vài lời nhắn nhủ..cho đại đội tan hàng. Khóa 10 chúng tôi đã chứng tỏ mình không kém gì các bạn bên Thủ Đức. Từ những thư sinh trong ngày nhập học, một vòng sân cờ không chạy nổi, các huấn luyện viên đã tôi luyện chúng tôi trở thành các SVSQ Cảnh Sát oai phong, mười vòng bây giờ là chuyện nhỏ.., đoạn đường này củng chẳng thấm vào đâu. Khoảng thời gian này, nhà thầu may đồ trang phục từ Saigon ra đo đạc ni tấc quần áo tiểu lễ, đại lễ, kết pi xám, bao tay trắng, giầy đen. Trong thời gian học tại TTHL Rạch Dừa, một SVSQ đã hy sinh vì súng cướp cò trong phiên gác đêm. Người thứ hai qua đời sau chuyến di hành từ TTHL Vạn Kiếp về. Một tuần lễ sau, chúng tôi được điều động khẩn cấp trở về trường mẹ.
Từ đầu năm 1975, tình hình chiến sự căng thẳng. Khoá 10 không có lễ gắn alpha, sinh viên tự gắn alpha lấy sau khi đã hoàn tất phần huấn luyện căn bản tại TTHL Rạch Dừa. Ban chỉ huy trường thông báo Xuân 75, toàn thể SVSQ sẽ ở lại Học Viện, cấm trại 100/100. Thế là chúng tôi được ăn một cái Tết cuối cùng không bao giờ phai tàn trong ký ức!
Sáng mùng 1 Tết, trời se se lạnh, gió ban mai thổi nhè nhẹ, mơn trớn, trên ngàn đóa hoa muôn màu rực rỡ trong vườn Tao Ngộ. Tại khu tiếp tân, từng nhóm gia đình của SVSQ rải rác cắt bánh chưng, bánh kẹo, mứt, trái cây, ngồi ăn chuyện trò vui vẻ. Ngoài kia trên con đường chính từ cổng Học Viện đi thẳng vào câu lạc bộ, hằng trăm chiếc áo dài tha thướt đủ màu sắc của các đóa hoa biết nói sánh vai cùng các SVSQ với cảnh phục hoa màu đất, bê rê đen, alpha vàng trên nền xanh lá cây trước ngực, khiến khung cảnh HV hôm nay trông thật trữ tình và thơ mộng làm sao!
Tết xong, với thời khóa biểu đầy đặc, sáng lên lớp học các ngành chuyên môn: tư pháp, tình báo, giao thông, điều tra, điện toán...., trưa về tập dợt diễn hành với súng garant xi láng bóng, chuẩn bị làm lễ ra trường cho khóa 9 đàn anh. Chiều đến học nhu đạo, tối đến từng tiểu đội đi gác bảo vệ vòng đai an ninh HV. Có đêm bị phạt dã chiến tơi bời vì lỗi vi phạm nhỏ nào đó trái với nội quy, lại có đêm mất ngủ vì còi hụ thực tập báo động toàn thể Khóa10 vào vị trí tác chiến.
Nói về tập diễn hành thì gian nan lắm, hễ ai đi làm rơi miếng carton nhỏ có tên mình kẹp trong nách là ra khỏi hàng làm 100 cái hít đất tại chỗ. Nhờ vậy, vào 1 buổi chiều nhạt nắng, sau khẩu lệnh của “hung thần” Đặng Thanh Thủy "đem…. súng.... xuống”.... tất cả chỉ nghe một tiếng động duy nhẩt! Chúng tôi ớn ông tiểu đoàn trưởng khóa sinh này vì phạt chúng tôi nhiều nhất, trước khi ăn, sau khi ăn, đứng lên ngồi xuống ở nhà bàn, chào tay không đúng cách, đeo găng tay trắng khám phòng cuối tuần, hăm cúp phép...
SVSQ chúng tôi chỉ đợi cuối tuần về thành phố lấy le mà phải ở lại trường thì buồn lắm. Chắc biết vậy “hung thần” chưa lần nào cúp phép bọn tôi. Đại Úy Sâm “lửa”, Đại đội trưởng 34 cũng không kém gì, tuy nhiên cũng thương đám em út này lắm, phạt thật nặng rồi quay lưng để SVSQ Tuần Sự đếm ăn gian cho qua chuyện. Mỗi sáng thứ hai, tiểu đoàn SVSQ diễn hành và tập hợp tại sân cờ để chào quốc kỳ. Sau đó nghe chửi vì anh em xách sổ đi khám bệnh sau khi đi phép…
Vài ngày trước khi khóa 9 ra trường, khán đài được dựng lên, xe vòi rồng đến xịt rửa sân, xe Trung tâm Quốc gia Điện ảnh đến sắp xếp dụng cụ quay phim, ban cảnh nhạc thuộc bộ tư lệnh xuống tập dợt các điệu nhạc diễn hành cho cả hai khóa, không khí thật nhộn nhịp. Anh em chúng tôi mệt phờ với tập dợt diễn hành. Các sĩ quan cán bộ gọi chúng tôi “các anh đi như đàn bò..đàn vịt..” phạt từ Liên Đoàn tới cá nhân.., kết quả chúng tôi đã làm các vị hài lòng trước ngày làm lễ. Giờ chót, một trung đội dàn chào được thành lập, đứng ngay cổng vào, tiếp đón quan khách với tư thế chào tay (tôi có mặt trong số này). Một sáng tinh mơ, tiếng chim hót trên cành rộn rã như chào đón ánh bình minh đang ló dạng cuối chân trời. Các SVSQ trong cảnh phục đại lễ rực rỡ đang đứng theo đội hình diễn hành trước khán đài. Khóa 10 mang bao tay trắng, chống súng garant xi trắng trong tư thế thao diễn nghỉ. Khóa 9 mang bao tay trắng, cũng trong tư thế nghỉ. Tất cả với lễ phuc 3 màu: VÀNG (tượng trưng cho hồn thiêng sông núi), TRẮNG (tượng trưng cho sự trung trinh tận tụy một lòng phục vụ cho dân và cho Tổ Quốc), XANH (tượng trưng cho sự công minh liêm chính). Vài tia nắng nhạt rơi xuyên qua các tàng mây phủ xuống vũ đình trường, đứng xa trông giống như một bức tranh hùng tráng!
Ba tiếng nổ bùng lên của khối thuốc nổ để chào mừng phái đoàn chính phủ đến! Đi đầu là Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, tiếp đến là Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, thứ ba là Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình. Sau đó, lần lượt tiếp đón các yếu nhân quân dân cán chính. Tổng Thống Thiệu đọc diễn văn chào mừng, SVSQ Khóa 9 quỳ xuống tuyên thệ, sau đó các vị sĩ quan cao cấp gắn lon Thiếu úy cho các tân sĩ quan khóa 9. Khóa 10 chúng tôi, sau lưng khoá 9, trong tư thế nghiêm, súng chào bắt trước ngực, nhẫn nại chờ đợi. Sau cùng là phút diễn hành của cả hai khóa. Khóa 9 đi trước, bông mai vàng chói trên vai, kế tiếp là khóa 10, súng Garant vai phải, tay trái đồng nhịp, chân bước đều diễn hành qua khán đài trong tiếng vỗ tay vang dậy của quan khách.
Sau lễ mãn khoá 9, đai đội 33 và 34 khởi công đào giao thông hào phòng thủ chạy từ phía sau văn phòng đại đội đến trạm xá, từ đây nhìn ra xa lộ gần hai cây số toàn là đồng trống.
Chiến tranh thật sự chín mùi khi Học Viện là nơi tạm cư của gia đình Cảnh Sát di tản từ miền Trung về. Khối an ninh cảnh lực sau khi sưu tra đã chuyền họ đi nơi khác, có lẽ BTL sợ để lâu sẽ làm giao động đến tinh thần svsq.
Đầu tháng ba 75 chúng tôi được lệnh thay thế súng carbine bằng M16. Những khẩu súng còn mới tinh, có khẩu còn trong bọc nylon, ngoài ra còn được trang bị M79 với đầu đạn chống chiến xa. Nhớ lần tập bắn M16 đầu tiên ở Rạch Dừa, HLV tác xạ cho bắn thử tự động ba viên, anh nào cũng tưởng như carbine, kê vai bắn, kết quả đạn bắn lên trời. Ông HLV cười ruồi rồi giảng bài học đầu tiên, nhắm bắn từng nhát thì kê vai, bắn tự động thì cầm lỏng ngang hông, mấy lần sau anh em ta bắn ngon lành. Thời gian này, chúng tôi được thực tập kỹ về phòng thủ, cách sử dụng mọi loại vũ khí căn bản, lựu đạn, các SVSQ thủ M79 được chở đi thực tập ở xạ trường Thủ Đức cách sử dụng đầu đạn thường và đầu đạn chống chiến xa. Ban chỉ huy HV đã chuẩn bị cho chúng tôi một tinh thần và nghị lực cùng khả năng tối thiểu để chiến đấu.
Vài ngày sau, đại đội “gương mẫu” 33 phải ở nhà phòng thủ, ba đại đội còn lại được biệt phái về giữ an ninh cho đô thành Sài gòn và các vùng phụ cận. Đại đội 34 lãnh trọng trách vùng ngã tư Bảy Hiền. Chúng tôi được chia thành nhiều toán nhỏ, phối hợp với các chi Cảnh Sát địa phương, xét hỏi các thành phần khả nghi, khám xét xe gắn máy có phân khối lớn đề phòng đặc công VC len lỏi vào thành phố phá hoại, khoá 10 kể ra cũng đa năng!
Giữa tháng ba, khóa 11 được chuyển từ Rạch Dừa về. Chúng tôi từ phòng ngủ nhìn ra quan sát, từng đoàn xe GMC chở các anh em khóa 11 vào sân cờ. Có tiếng nói nhỏ nhẹ sau lưng: “Có thể tụi mình ra trường sớm mà không cần làm lễ”; tôi bật cười và nhận ra: “A thì ra Thiếu Úy Minh Gái nóng lòng cứu nước nhỉ”. Cả đám rộn lên cười dòn giã, còn chú Minh Gái thì mặt đỏ như gái sắp động phòng. Minh Gái là biệt danh của anh Bắc Kỳ này. Đẹp trai nhất Đại Đội 34, da trắng má hồng, môi đỏ, mặt trái soan, mắt to đen láy, khi cười lại điểm thêm hai đồng tiền, làm khối anh phải thương vợ, nhớ bồ khi thấy nó.
Cảnh Sát chúng tôi không có huấn nhục, không có tiền lệ đàn anh đàn em gì cả, để thị oai, toàn thể Khóa 10 lấy khí thể đi diễn hành 10 vòng sân trường, những bản hùng ca được các đại đội liên tục đồng ca vang dậy một góc trời, và cũng để làm gương. K10 chạy đi học theo điệu quân hành nhanh thay vì đi bộ.
Cũng trong thời điểm này, chúng tôi được lệnh ứng chiến 100%, ba lô súng đạn đầy đủ, không được tháo giày khi đi ngủ. VC bắt đầu pháo kích đôi ba lần vào trường. Ban chỉ huy và các sĩ quan huấn luyện bắt đầu lên lớp và khích động tinh thần chúng tôi nhiều hơn, những SVSQ chưa có một kinh nghiệm nào về chiến đấu, và vũ khí trang bị đơn sơ, nếu VC tấn công thì sẽ bị thiệt hại nặng nề.
Đêm xuống, những tiếng đại bác từ xa vọng về và những nháng lửa tóa lên trong đêm, đồng thời vời sự thay đổi và vắng mặt của một số sĩ quan cán bộ cũng làm tinh thần chúng tôi giao động không ít.
Thứ bảy 19/4/75, căn cứ Long Thành thất thủ, SVSQ các trường Bộ Binh Long Thành, Chiến Tranh Chính Trị, Võ Bị Đà Lạt rút về Huấn Khu Thủ Đức. Chúng tôi tập hợp nghe lệnh của Đ/T Viện Trưởng và ban tham mưu Học Viện, cấm trại 100%, tất cả súng đạn đầy đủ vào vị trí phòng thủ, an binh bất động chờ lệnh. Chúng tôi thầm nghĩ, với vũ khí trang bị và khả năng kinh nghiệm của chúng tôi, nếu VC tràn ngập, chắc Học Viện sẽ là mồ chôn của K10, K11, ban chỉ huy trường và gia đình cán bộ.
Các đại đội được lệnh làm giấy phép cuối tuần, trình báo văn phòng Viện Trường chờ lệnh. Chúng tôi từ các vị trí phòng thủ, hướng mắt về văn phòng Viện Trưởng, đèn sáng suốt đêm, chờ lệnh. Năm giờ sáng, lệnh xả trại được chấp thuận, các SVSQ đại đội trưởng được lệnh đem giấy phép về với khẩu lệnh không cảnh phục khi xuất trại. Chúng tôi lần lượt thay nhau về Sài Gòn, các anh em ở xa nóng lòng tìm tin tức gia đình, một số ở lại HV vì không biết về thành phố trong tình trạng này để làm gì. Sài Gòn lúc này đã bắt đầu giao động mạnh. Dân chúng vội vã lo tìm đường di tản, dân tỵ nạn miền trung, nam, tràn ngập thành phố, và báo chí, truyền hình, đua nhau tường thuật lẫn hình ảnh về thảm cảnh chiến tranh đang xảy ra từng giờ từng phút.
Chiều Chủ nhật, tôi và một số anh em lục tục trở về trường trước cặp mắt kinh ngạc của các anh em bên Thủ Đức và dân chúng trong vùng.
Ngày 21/4, để chận bước tiến của Cộng Sản Bắc Việt, bom CBU-50 được thả trên địa bàn Xuân Lộc, ở độ cao 6.100 mét, một khối lửa khổng lồ bùng lên, 16,000 mét vuông san thành bình địa. Cùng ngày, Tổng Thống Thiệu buộc phải từ chức và cáo buộc người Mỹ đã phản bội VNCH. Truyền hình và radio phát sóng lời trần tình của ông. Trong bài diễn văn từ chức, ông lên án Kissinger đã lừa ông ký hiệp định Paris, với lời hứa hẹn Hoa Kỳ sẽ viện trợ quân sự cho VNCH, nhưng rồi lại phản bội lời hứa. Ông tuyên bố “Theo hiệp ước hòa bình Paris, Hoa Kỳ đồng ý sẽ thay thế vũ khí, đạn dược, theo nguyên tắc ‘một đổi một’ nhưng rồi họ không giữ lời hứa. Lời nói của người Mỹ có còn tin cậy được không?” “Hoa Kỳ đã phản bội và không giữ lời hứa giúp VNCH chiến đấu cho hòa bình, và phản bội sự hy sinh của 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ.”
Tin vui vừa tới thì tin dữ đã nối đuôi theo. Đêm đến, từng đoàn trực thăng và phản lực bay về hướng biển mang theo niềm hy vọng và phần nào tinh thần của chúng tôi.
Sáng 29/4 chúng tôi tập họp tại xạ trường HV, còn nhớ khi từ TTHL Rạch Dừa về chúng tôi được cho bắn thử tại đây, kết quả là dưới trung bình, lý do là mục tiêu di động. Thế là tập lại, HLV bắt cầm bi đông đổ đầy nước dang tay thẳng ra về phía trước, nhờ vậy những chàng thư sinh chúng tôi cầm súng vững vàng hơn.
Thiếu Tá Ngô Bá Phước ra lệnh phân công tác cho từng đại đội. Đại đội tôi còn lại Thiếu úy Châu và Thiếu úy Ựng. Một số SVSQ vắng mặt, các vị Sĩ Quan khác, phần đi phép hoặc đi họp ở BTL chưa về vì nhiều lý do... Được lệnh gọi, tôi nai nịch súng ống, M79 đeo vai, kèm sáu trái đạn vắt ngang ngực, tay xách thêm khẩu M16, ba lô nón sắt vào văn phòng đại đội trình diện. Sau phần chào kính, Thiếu úy Ựng bảo tôi trực chiến tại văn phòng đại đội và ngủ luôn tại đây. Khoảng hai giờ đêm, đang mơ màng trong khói thuốc captain, tôi giật mình sửng sốt khi nghe tiếng gọi nhau ơi ới của bọn Cộng Sản trên tần số truyền tin của mình, tôi trình SQ trực cho biết Việt Cộng chắc đã về gần đây rồi.
6h30 sáng, vừa mở tung cửa sổ văn phòng đại đội, tôi thấy hàng hàng lớp lớp xe tăng T54 qua lại với những nòng pháo chĩa thẳng vào HV, tôi la lớn “Việt Cộng tới ngoài xa lộ rồi đại đội chuẩn bị ứng chiến”. Tôi nhấn chuông báo động, từng trung đội trườn ra giao thông hào theo đội hình tác chiến. Khi đến tuyến đầu tiên, tôi đã thấy một số quân nhân trong sắc phục quân đội đang ghìm súng hướng ra xa lộ. Tôi thầm nghĩ, đây có lẽ là đơn vị của huấn khu Thủ Đức sang hỗ trợ đêm qua. Bộ đội VC ngụy trang lá cây ngồi đầy trên xe tăng treo cờ đỏ sao vàng xen lẫn cờ mặt trận lừa bịp miền nam trên các cần ăng ten cao vút. Trên tần số truyền tin, tôi nghe những tiếng nói giọng bắc, “Coi chừng trường sĩ quan cảnh sát ngụy...” Thế là hai bên vẫn án binh bất động. Không gian như ngừng lại, chúng tôi ghìm súng về phía trước chờ lệnh, trước mặt là đám xe tăng Việt cộng ầm ì chờ đợi cùng lính tùng thiết phía sau. Tôi nhìn đồng hồ tay, đúng 9 giờ, T54 Việt cộng phun khói từ từ bò xuống mặt đồng trống, nhả đạn vào Học Viện, những tiếng nổ làm đinh tai nhức óc. Những tiếng nổ long trời lở đất, tiếng rít lên của pháo chụp nghe như tiếng gầm của cơn bão cấp 5 trên biển cả. Trong đợt pháo đầu tiên này, chúng thổi bay vọng gác cao nhất có mặt hướng ra xa lộ, nơi trang bị khẩu đại liên duy nhất của trường và làm gẫy cột cờ của ta. Các lớp học bị pháo thổi sụp đổ, tôi nghe hình như có tiếng la cầu cứu của nguời bị thương trên đó, chắc là anh em khóa 11. Khi pháo dứt, những chùm cây di động xếp hàng sau xe tăng tiến về phiá chúng tôi, lập tức hàng rào hỏa lực của hằng trăm cây súng, xen lẫn những tiếng nổ kinh hồn M79 khiến con cháu bác đành rút lui về phía sau. Tiếng Thiếu tá Phước vang dội trên máy xin pháo binh Cát Lái bắn yểm trợ, anh sĩ quan Trung Úy đưa bình bi đông cho tôi, “uống một hớp lấy tinh thần đi em”, anh thì thầm, “mình chống trả dữ dội sao không thấy chiếc máy bay nào cả, chắc vận nước hết rồi?”. Nói xong anh ngước mặt nhìn trời với hai hàng nước mắt đầm đìa mà sau hơn 40 năm tôi vẫn còn nhớ mãi! Như để trả lời câu hỏi của anh, VC dập pháo dữ dội ở lần thứ hai, thư viện Học Viện bốc cháy, trạm xá nổ tung, mặt đất rung chuyển tưởng đâu đến ngày tận thế, ngực tôi tưởng chừng như bể tung, tai tôi điếc đặc, những mảnh đạn bay vút lên không trung chạm vào chướng ngại vật tạo thành những âm thanh ma quái như địa ngục chắc có thật ở thế gian này. Đâu đó, ở dưới giao thông hào, những tiếng kinh cầu Phật, Chúa vang lên nghe thê lương não ruột. Có anh em nào tức tửi ra đi ở vọng gác đại liên, ở dãy nhà hai từng của khóa 11, ở các lớp học, ở vòng đai, hay trong khuôn viên Học Viện? Riêng đại đội 34, trung đội của Huỳnh Quốc Việt, bảo vệ phòng truyền tin tại đại sảnh đường, bị trúng pháo nặng, nhiều SVSQ bị thương, Quỳnh bị miểng pháo trúng cánh tay, được Thiếu Úy Châu tận tình băng bó. Tiếng radio phát ra từ văn phòng đại đội lời kêu gọi buông súng đầu hàng của Tổng Thống bất hợp hiến Dương Văn Minh vang lên. Như một hoạt cảnh trong mơ, những chiếc xe tăng VC từ dưới mặt ruộng bò lên lại xa lộ và chạy về phía Hàng Xanh Thị Nghè. Đây có lẽ là đoàn xe tăng vào dinh Độc Lập sau khi giao chiến với khoá 10 SVSQ Cảnh Sát Quốc Gia VNCH.
Chúng tôi nhảy lên khỏi công sự phòng thủ tiến về phía câu lạc bộ, vừa bước vào bên trong đã nghe tiếng súng AK47 vang lên ngoài khuôn viên Học Viện, tiếng ai đó vang lên, “Coi chừng tụi du kích Tăng Nhân Phú trả thù mình đó”. Thiếu tá Phước ra lệnh đào thoát, thế là tôi và một số anh em về phòng thay bộ thường phục, theo ngã trại gia binh rồi kiếm đường đi thẳng ra hướng xa lộ. Học Viện tan hàng, Th/úy Châu chở Quỳnh ra ngã ba xa lộ. Việt đại đội 34 kể lại, các anh em bị thương tự băng bó và tìm cách đào thoát. Dọc đường, đoàn xe Việt Cộng vẩn lũ lượt tiến về thành phố. Trên xe, những bộ mặt vênh váo, vô cảm trong những bộ đồ rộng thùng thình, dép râu, nón cối, nón tai bèo lẫn lộn! Nước mắt tôi lăn dài trên má, trời ơi, quân đội miền nam của tôi anh hùng, dũng cảm, oai phong lẫm liệt đã bị bức tử phải buông súng đầu hàng cái bọn quê mùa này sao? Tôi cảm nhận mơ hồ kể từ hôm nay mấy chục triệu dân tôi rồi sẽ phải ngập chìm trong muôn vàn khổ ải vì cái bọn u mê ngu dốt này dưới sự lãnh đạo của cái đảng cướp lừa bịp lừng danh nhất Đông Nam Á.
K10 tan tác trong niềm uất hận, K11 cùng nối bước theo sau. Năm năm sau tôi đặt chân tới Mỹ với câu hỏi không có trả lời và niềm tự hào về phong cách của một SVSQ Cảnh Sát Quốc Gia VNCH. Cám ơn Th/tá Phước, Th/úy Châu, Th/úy Ựng, và các sĩ quan cán bộ khác đã dìu dắt chúng tôi trong những ngày cuối cùng tại Học Viện. Đại hội 45 năm họp mặt (2011), tôi gặp lại Việt, Thái Sen, Giáo của ĐĐ 34, Phương, Châu, Khôi, Dũng, Khâm, Sơn Rotha, Văn, Vinh, Thuần, Trưng, Hùng TP, Định, Tiến...gặp lại Th/tá Phước, đại đội Phó 34 Th/úy Châu nghẹn ngào, “Anh gặp lại tụi em, anh mừng lắm; còn đứa nào nữa không em?” Nghe mà xót xa. Sau này liên lạc được với Thận ở Úc, Nguyên và các bạn ở Đà Nẵng, cùng Hùng Bắc Kỳ ở Sài Gòn, nhờ những tấm hình nó gởi qua mạng CSQG. Tôi và Hùng TP đang cố gắng vận động cho Hùng BK qua dự đại hội mà nghe nói sao khó khăn quá.
Đại hội 50 năm đã đến, không biết có ai còn nhớ đến mấy đứa em (K10, K11) đã vĩnh viễn nằm xuống trong trường Mẹ ở giờ thứ 25 không hả? Xin hãy thắp một nén hương lòng cho những SVSQ muôn đời ở lại HVCSQG. trên đồi Tăng Nhơn Phú. Cầu chúc cho các bạn đồng môn của tôi được bình an dù ở đâu đó trên thế gian này.
SVSQ Nguyễn Ngọc Sơn (K10)