DIỄN ĐÀN
TÂM TÌNH
THÁI HÓA LỘC
Người Thương Phế Binh một lần nữa lại nổi cộm lên tại địa phương Dallas-Fort Worth khi Võ Sư Nguyễn Tiến Hóa, một khuôn mặt quen thuộc tại cộng đồng địa phương phổ biến thư mời gửi đến các cơ sở tôn giáo, các bậc trưởng thượng, Cộng Đồng, Hội Đoàn Cựu Quân Nhân, các Cơ quan Truyền thông Báo chí tham gia một cuộc gây quỹ cho Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa…Ông gợi ý “Không biết danh xưng : THƯƠNG PHẾ BINH đã có từ bao giờ, và từ đâu? Và sau khi trình bày chia sẻ về Thương Phế Binh và ông xin mọi người “XIN MỘT LẦN TRI ÂN NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VNCH”.
Khi đề cập đến Thương Phế Binh thì không thể không nhắc đến Thương Phế Binh từ đâu mà ra và liên hệ đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và chính vì nguồn cơn này mà ông Bùi Quang Thống đã lên tiếng: “Sỡ dĩ tôi mạo muội viết thư cho anh là để ngăn chận những nghi ngờ không cần thiết cho việc anh làm giúp TPB. Chẳng hạn như tôi đã nói, khi bà Dương N. Ánh về đây mà chỉ thấy anh đơn độc đứng ra xăn tay áo, chắc chắn bà ta không ít cũng có đôi lời dị nghị. Vì vậy, tôi cũng mong Liên hội, Cộng đồng, Báo chí ủng hộ anh. Nhưng cái khổ cho người đứng ra “vác ngà voi” như anh chỉ có anh và trời mới hiểu. Anh đã từng gây quỹ giúp Formosa tôi không hề góp ý! Nhưng việc TPB thì lại là chuyện khác và khá tế nhị đó anh…”. Tôi cũng có thể hiểu, Thương Phế Binh chính là những chiến sĩ trong các quân, binh chủng quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong đó có binh chủng Nhảy Dù. Nhiều tổ chức gây quỹ tri ân Thương Phế Binh tại địa phương xảy ra trong quá khứ nhưng đã tạo ra hoài nghi về cách tổ chức, tiền ủng hộ của đồng hương có lòng không đến tận nơi của các Thương Phế Binh thật, đang mong ngóng từng giờ giọt nước “tri ân” từ hải ngoại…Người Thương Phế Binh vô tình như tấm bia trong quân trường khi người tân binh nhắm vào điểm giữa nhưng không bao giờ trúng giữa tâm điểm. Người Thương Phế Binh không thể giải thích để ông Bùi Quang Thống hiểu được tâm tư của võ sư Nguyễn Tiến Hóa và ngược lại!
Đối với ngườiThương Binh tất cả hình như chỉ còn có kỷ niệm sau cuộc đổi đời. Là định mệnh đối với họ, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo vòng đời nổi trôi của dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận.
Mất nước nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đã đi hết rồi, chỉ còn ở đây là những thương phế binh xưa cũ, những hồn ma cô quạnh, sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận:
“Di tản khó, sâu dòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây sình mặt nát, lạch mương tanh…”
(Tô Thùy Yên)
Chúng ta thán phục, hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử cũ. Sẽ vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần bình Chiêm, phá Bắc, đuổi giặc Mông trên sông Bạch Ðằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành sử thế nào mà muôn người như một, khiến cho người trong nước, già trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội Nghị Diên Hồng. Sau này mới vỡ lẽ, thì ra đó là tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phân của kẻ sĩ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.
Thanh niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh sau khi được xuât ngũ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người mẹ già từ quê xa, đang đợi con trở về. Thảm thiết quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiều. Ai đã từng thấy, cảnh vợ lính hay người yêu, chỉ một lần vào thăm người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đây. Cũng như có được bao nhiêu người vợ tù thật sự đáng được vinh danh trong ngày Đại Hội Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị lần thứ 15!
Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu. Làm người bình thường, sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh áo, huống chi phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ…
“Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà
thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo người xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ…”
(Phạm Duy)
Nhưng chiến tranh chứa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành tàn phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.
Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống? Có thương không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nữa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp sống phận bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường.
Hai mươi năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nữa, thì xác của nam nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đã chất cao như núi, máu chảy thành sông. Rốt cụcá chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do, thống nhất. Người cả nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ phiá, bởi cổ được mang nhiều thứ gông, cả tư bản và đảng CS cầm quyền.
Tha thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ cũ còn, được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi… thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực nghèo. 30 tháng 4, 1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui tàn phế, thì bị xua đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay cả ngôi nhà của mình.
Thảm họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị, khi giặc về? Có ai cầm được nước mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn thương binh, nối gót đắt dìu ra cổng. Người sáng dắt kẻ mù, kẻ bị thương nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với nước mắt đoanh tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết hậu phương. Một số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Ðời thê thảm quá, cũng may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã Ba Chú Iá, Gò Vấp, những người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính nghèo.
Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. Ba mươi bảy năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì. bóng ma trơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tối. Ðâu có ai muốn nhắc tới những thân phận hẳm hiu trong vòng đời tục lụy, kể cả những cấp chỉ huy cũ hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở hải ngoại.
– Xin hãy thương lấy họ, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngã.
– Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.
– Hãy rưới một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân.
– Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối.
– Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong căn nhà VN to lớn, đã được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường viễn xứ, để họ an tâm chờ đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.
Ngày xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng ngoài quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối duyên xưa:
“Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng
liên ẩm, đối ẩm, đòi phen
cùng chàng lại kết, mối duyên đến già…”
(Chinh Phụ Ngâm)
Nhưng người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương vừa ngưng tiếng súng, lập tức từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị dày mồ, lính bị thương tàn phế bị xua đuổi ra khỏi cuôc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng thương hơn người lính VNCH?
“Dấu binh lửa nước non như cũ,
kẻ hành nhân qua đó chạnh thương”
(Chinh Phụ Ngâm)
Cuộc đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nổi buồn thiên cổ, xin hãy nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ. Nghiêng mình, cúi đầu cảm tạ những vị ân nhân, đã và đang hết lòng cưu mang, giúp đỡ tận tình “Thương Phế Binh, gia đình kể cả cô nhi quả phụ VNCH,” hiện đang sống kiếp trầm luân rách đói, trong địa ngục VN.
THÁI HÓA LỘC